Cơ sở pháp lý và các khái niệm về hóa đơn điện tử

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ

– Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 – Hiệu lực từ ngày: 01 tháng 7 năm 2022.

 Thông tư 78/2021/TT-BTC ngày 17 tháng 09 năm 2021 –  Hiệu lực từ ngày: 01 tháng 7 năm 2022.

– Thông tư sửa đổi, bổ sung: (chưa có)

 

II. KHÁI NIỆM HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ:

1. Khái niệm:

Hóa đơn điện tử là hóa đơn có mã hoặc không có mã của cơ quan thuế được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ lập bằng phương tiện điện tử để ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật về kế toán, pháp luật về thuế, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế.

(Khoản 1 Điều 89 Luật Quản lý thuế 2019)

(Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP)

2. Hình thức: Hóa đơn điện tử có 3 hình thức

– Hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế

– Hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế

– Hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế

(Khoản 3 Điều 89 Luật Quản lý thuế 2019)

(Điểm a Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP)

3. Phân lọai hóa đơn điện tử: có 6 loại hóa đơn điện tử

– Hóa đơn giá trị gia tăng

– Hóa đơn bán hàng

– Hóa đơn điện tử bán tài sản công

– Hóa đơn điện tử bán hàng dự trữ quốc gia

– Các loại hóa đơn điện tử khác: tem điện tử, vé điện tử, thẻ điện tử, phiếu thu điện tử

– Chứng từ điện tử được sử dụng và quản lý như hóa đơn: Phiếu xuất kho

kiêm vận chuyển nội bộ điện tử, phiếu xuất kho hàng gửi bán đại lý điện tử

(K.2 Điều 89 Luật Quản lý thuế 2019; Điều 8 Nghị định số 123/2020/NĐ – CP; K.1 Đ.4 Thông tư 78/2021/TT-BTC)

4. Thời điểm áp dụng hóa đơn điện tử theo NĐ 123/2020/NĐ-CP: Bắt buộc từ ngày 01/07/2022.

“Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2022, khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Nghị định này trước ngày 01 tháng 7 năm 2022”.

Theo (Khoản 1 Điều 59 Nghị định 123/2020/NĐ-CP)